Thông báo về Thông tư 70 về thủ tục hải quan với khí và khí dầu lửa hóa lỏng

Đại diện doanh nghiệp kinh dinh khí và khí dầu lửa hóa lỏng nêu ý kiến tại Hội nghị tập huấn Thông tư 70. Ảnh: T.D.

Tham dự hội nghị có Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về thương chính- Tổng cục hải quan Nguyễn Đức Nga, đại diện các Cc̣c hải quan địa phương, lãnh đạo Công ty kinh dinh sản phẩm khí, các doanh nghiệp kinh dinh khí và khí dầu mỏ hóa lỏng trong cả nước.

Dịch vụ quyết toán thuế cuối năm

Biểu hiện tại hội nghị, ông Ngô Minh Tuấn,Trưởng Phòng Giám quản dụng cụ xuất nhập cảnh và hàng hóa khác- Cục Giám sát quản lý về hải quan cho biết, Thông tư 70 được vận dụng là cơ sở pháp  lý cho cơ quan thương chính, doanh nghiệp trong việc thực hành thủ tục thương chính đối với khí và khí dầu mỏ hóa lỏng xuất nhập khẩu (bao gồm cả xuất khẩu, nhập cảng bằng đường ống chuyên dụng hoặc khai thác xuất khẩu trực tiếp từ giếng ngoài khơi thuộc quyền tài phán của Việt Nam), tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, quá cảnh; vật liệu nhập khẩu để sinh sản và pha chế khí, khí dầu mỏ hóa lỏng; vật liệu du nhập để gia công xuất khẩu khí và khí dầu lửa hóa lỏng.

Cục Giám sát quản lý về hải quan cũng lưu ý cơ quan thương chính và các doanh nghiệp, những nội dung khác chưa quy định trong Thông tư 70 sẽ được tham chiếu đến Thông tư số 196/2012/TT-BTC ngày 15-11-2012 của Bộ Tài chính quy định thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại; Thông tư 22/2014/TT-BTC ngày 14-2-2014 của Bộ Tài chính quy định thủ tục thương chính điện tử đối với hàng xuất nhập khẩu thương mại và Thông tư 128/2013/TT-BTC ngày 10-9-2013 của Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; soát, giám sát thương chính; thuế xuất du nhập và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu theo từng loại hình tương ứng.

Tại hội nghị, đại diện Cục Giám sát quản lý về hải quan cũng đã lắng nghe, bàn thảo và kết nạp quan điểm đóng góp từ các cục thương chính địa phương và doanh nghiệp xung quanh các vướng mắc liên hệ đến Thông tư 70 như: hạn vận nộp hóa đơn thương nghiệp bản  chính; dùng phiếu cân trong hồ sơ hoàn thuế; niêm phong bồn bể; hồ sơ hải quan đối với vật liệu nhập cảng để sản xuất hàng xuất khẩu; phân luồng tờ khai thương chính đối với sản phẩm khí và khí dầu lửa hóa lỏng…

Làm báo cáo tài chính

Cụ thể, với đề xuất không niêm phong bồn bể cho tuốt tuột các loại hình du nhập khí và khí dầu mỏ hóa lỏng của đại diện Công ty kinh dinh sản phẩm khí và Công ty Chế biến khí Vũng Tàu, đại diện Cục Giám sát quản lý về thương chính cho rằng, niêm phong thương chính là một trong những phương thức giám sát của cơ quan quản lí. Ngoại giả, cơ quan thương chính có thể giám sát bằng các hình thức khác như giám sát trực tiếp, qua camera… thành thử, việc giám sát của cơ quan thương chính theo quy định của pháp luật là không đổi thay. Tuy nhiên, Cục Giám sát quản lý cũng sẽ đề xuất ý kiến của doanh nghiệp lên cấp có thẩm quyền để coi xét, có hướng giải quyết hiệp nếu việc niêm phong bồn bể trên gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Can dự đến quy định sờ soạng các tờ khai khí và khí dầu mỏ hóa lỏng xuất nhập khẩu duyệt hệ thống khai báo hải quan điện tử đều phải được phân luồng vàng để thẩm tra hồ sơ (Điều 27 mục 5 của Thông tư 70), đại diện Cục Giám sát quản lý về thương chính cho biết, sản phẩm khí và khí dầu lửa hóa lỏng là hàng hóa đặc thù có độ rủi  ro cao nên phải phân vào luồng vàng để thẩm tra hồ sơ.Công ty dịch vụ kế toán

Với những đề xuất hệ trọng đến Thời hạn nộp hóa đơn thương nghiệp bản chính; giảm bớt quy trình rà soát hàng hóa khi làm thủ tục xuất nhập khẩu; quá trình lấy mẫu để soát chất lượng, số lượng hàng hóa… Cục Giám sát quản lý về hải quan cho biết sẽ hấp thụ ý kiến của các đại biểu và có văn bản gửi các cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết./.

Sao Cán bộ đẩy khó cho dân

  Sao đẩy cái khó, cái khổ cho dân?  

  Có hợp lý không khi cơ quan quản lý cứ bắt người dân phải chịu thiệt hại bởi lỗi của mình?  

    

Bộ Xây dựng vừa đưa ra dự thảo thảo Nghị định giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo giấy phép trong đó đề xuất cho phép đất không có bất kỳ giấy tờ gì, nhưng không có tranh chấp thì cũng được cấp phép xây dựng.

Lập tức đề xuất này đã bị đại diện nhiều cơ quan quản lý cho rằng sẽ khiến cho việc quản lý thêm khó khăn, làm nảy sinh tiêu cực ở cấp xã, phường và người dân sẽ có thể chây ì trong việc làm nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.

Tuy nhiên, đề xuất này được sự đồng tình ủng hộ của hàng vạn người dân vì họ hy vọng sẽ bớt đi nỗi khổ khi phải đi làm các thủ tục để được cấp sổ đỏ.

Sổ đỏ là một loại giấy tờ quan trọng nhất, cơ bản nhất đối với nhà, đất nhưng có lẽ chính vì thế mà lâu nay là người dân khi làm sổ đỏ vẫn phải “chạy”, phải “xin”. Thủ tục và những rắc rối phát sinh do cán bộ đòi hỏi khi người dân đi xin sổ đỏ là một “mê hồn trận” và là sự hãi hùng với bất kỳ người dân nào.  Dịch vụ kế toán tại hà nội  Nếu họ không “biết ý” thì dù giấy tờ đầy đủ, hợp pháp vẫn cứ bị ách lại mà không rõ lý do. Thậm chí, cách đây chưa lâu, một vị quan chức của Bộ Tài nguyên – Môi trường tiết lộ rằng chính gia đình ông cũng phải bỏ hàng chục triệu đồng “bôi trơn” mới được cấp giấy tờ nhà đất.

Thực trạng trên đây đang diễn ra hàng ngày và nó càng trở nên vô lý khi đáng lẽ ra việc này là nhiệm vụ mà chính quyền và cơ quan quản lý phải làm, bất kể là người dân có yêu cầu hay không. Nói cách khác là chính quyền phải thực hiện quản lý đất đai và các biến động trong sử dụng đất của tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng đất; không có lẽ gì người dân lại phải bỏ tiền ra “xin” để mảnh đất của họ được chính quyền “biết” và “theo dõi”. Chính vì sự vô lý này cứ nghiễm nhiên tồn tại nên trong nhiều trường hợp đã đẩy người dân vào tình cảnh chạy như đèn cù khi làm việc với cơ quan Nhà nước và từ đó họ buộc phải chọn một trong số những giải pháp là đưa hối lộ hoặc cứ sử dụng đất mà bất chấp các quy định của luật pháp.

Dịp này, Sở Tư pháp TP cũng có báo cáo về công tác CCHC của Sở trong giai đoạn 2011-2013. Theo đó, Sở đã chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng và trình UBND TP ban hành quyết định về quy chế liên thông nhóm thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực hộ tịch, bảo hiểm y tế và đăng ký quản lý cư trú trên địa bàn TP. Theo đó, 100% xã, phường, thị trấn trên địa bàn TP triển khai thực hiện liên thông. Cải cách này mang lại hiệu quả thiết thực, sự hài lòng và được người dân ủng hộ.

Ông Từ Dương Tuấn - Ảnh: N.Hà
- Theo quy định, chỉ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định thủ tục hành chính yêu cầu thành phần hồ sơ phải có bản sao có chứng thực thì người dân mới phải nộp bản sao có chứng thực. Còn tất cả thủ tục chỉ quy định nộp bản sao thì người dân có quyền lựa chọn nộp một trong ba bản sao: bản sao từ sổ gốc, bản sao kèm theo bản chính để người nhận hồ sơ đối chiếu hoặc bản sao có chứng thực.

 

Nghị định 79/2007 của Chính phủ về chứng thực đã hạn chế tối đa tình trạng yêu cầu người dân phải nộp bản sao có chứng thực các loại giấy tờ tràn lan nên đã quy định chặt chẽ như trên. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao là phải đối chiếu với bản chính và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao đối với bản chính các loại giấy tờ, chứ không được yêu cầu dân phải nộp bản sao có chứng thực.

Hiện nay hầu như thủ tục hành chính quy định các loại giấy tờ có trong hồ sơ đều không cần phải chứng thực. Nếu trong thủ tục chỉ ghi bản sao mà người tiếp nhận yêu cầu người dân phải nộp bản sao có chứng thực là sai quy định.

* Loại bản sao nào có mức độ tin cậy cao nhất, thưa ông?

- Thực chất ba loại bản sao trên đều có mức độ tin cậy như nhau. Bản sao có chứng thực có thể bị làm giả hoặc bản chính đã bị hủy, bị thu hồi, bị thất lạc... Trong khi đó, bản  kế toán thuế trọn gói  sao có bản chính đi kèm đạt độ tin cậy cao hơn, người nhận hồ sơ tiếp cận được với bản chính, đối chiếu và kiểm tra được độ chính xác.

* Nếu việc đối chiếu bản sao với bản chính có lợi hơn thì tại sao nhiều nơi tiếp nhận hồ sơ của dân không áp dụng?

Đó là quy định xóa đăng ký thường trú với người đi tù hoặc người xuất cảnh từ 2 năm trở lên của Bộ Công an tại Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Cư trú; và quy định cấm người có bằng chứng về vi phạm quy chế thi “không được phát tán thông tin cho người khác dưới bất cứ hình thức nào” của Bộ GD&ĐT tại tại thông tư số 04 (trích Điều 42a Quy chế Thi tốt nghiệp THPT 2013).

Đáng chú ý, cả hai quy định vô lý trên không những bị công luận phản ứng mà ngay cả những vị lãnh  Làm sổ sách kế toán  đạo cao cấp, người đứng đầu Quốc hội và Văn phòng Chính phủ trong phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn của mình cũng ngay lập tức lên tiếng.

- Trước đây chứng thực bản sao do các phòng công chứng thực hiện đạt độ tin cậy cao nên các tổ chức muốn nhận loại bản sao có chứng thực (còn gọi là có công chứng). Ngoài ra, do người tiếp nhận hồ sơ có tâm lý sợ trách nhiệm nên buộc người dân phải đi chứng thực bản sao để đẩy trách nhiệm này cho đơn vị chứng thực bản sao (thường là UBND cấp xã, phường). Bên cạnh đó, nhiều người tiếp nhận hồ sơ sợ mất thời gian đối chiếu bản sao và bản chính, nhất là những hồ sơ có nhiều loại bản sao. Trường hợp này, người tiếp nhận hồ sơ đẩy khó cho người dân, giành phần thuận tiện cho mình.

* Một số cơ quan, đơn vị chỉ nhận bản sao có chứng thực trong thời hạn ba tháng hoặc sáu tháng, có đúng không, thưa ông?

- Pháp luật hiện hành không có quy định nào hạn chế thời gian sử dụng bản sao đã được chứng thực hoặc bản sao được cấp từ sổ gốc. Vì vậy, các cơ quan từ chối nhận bản sao có chứng thực hoặc bản sao từ sổ gốc quá sáu tháng, quá ba tháng là sai quy định.

* Sở Tư pháp TP sẽ rà soát, chấn chỉnh việc yêu cầu bản sao có chứng thực như thế nào?

- Không phải đến khi Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị 17 thì Sở Tư pháp TP mới tham mưu UBND TP rà soát mà đã thường xuyên làm công việc này trong quá trình góp ý xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương và trung ương, đồng thời tham mưu cho UBND TP ban hành chỉ thị về nội dung này. Hiện nay Sở Tư pháp TP đang kiểm tra, khảo sát, đánh giá về mức độ lạm dụng yêu cầu chứng thực bản sao trên địa bàn cùng với đoàn kiểm soát thủ tục hành chính đối với các sở ban ngành trên địa bàn TP theo chỉ đạo của UBND TP để tham mưu cho UBND TP kế hoạch chấn chỉnh việc lạm dụng bản sao có chứng thực một cách hiệu quả.

Tuy nhiên, thực tế các tổ chức xã hội hoặc các doanh nghiệp có thói quen yêu cầu người nộp giấy tờ phải nộp bản sao có chứng thực như nộp hộ khẩu, CMND khi xin việc. Đây là quy định riêng của các tổ chức, Nhà nước không can thiệp được.

 

 

 

Tập đoàn “gia đình trị”: Muốn không lỗi thời hãy để cánh cửa mở

Quá lớn để sụp đổ


Mặt tích cực nhất của các tập đoàn châu Á là khả năng kiểm soát chém và sự phân tán rộng rãi khôn cùng mạnh mẽ. Tuy nhiên, nếu thử nhìn vào mặt tồi tệ nhất của các tập đoàn này thì cũng không khác gì một cơn ác mộng.

Đối với tổng thể nền kinh tế, sự tập quyền sức mạnh kinh tế có thể gây ra nhiều vấn đề. Ở Ấn Độ, 7/10 nhà kinh doanh lớn nhất đã bị kéo vào các vụ bê bối tham nhũng và 10 doanh nghiệp nợ nhiều nhất đã chiếm đến 13% các khoản cho vay của toàn hệ thống nhà băng. Một số đã vỡ nợ nhưng thực tại là họ quá lớn để sụp đổ.

Tập đoàn gia đình tại châu Á đang đối mặt khó khăn khi đời lãnh đạo "cột trụ"

Đang ngày một già đi


Bên cạnh đó, các tập đoàn lớn tại châu Á còn có những hạn chế khác và một trong số đó là vấn đề tuổi tác. Ở Hồng Kông, độ tuổi nhàng nhàng của 4 ông trùm ấm no nhất là 86. Bởi vậy, các nhà quản lý có thể sẽ gặp phải khó khăn khi hiệp tác với người những người đã "luống tuổi". Chưa hết, một nền văn hóa thứ bực có thể sẽ cản ngăn tập đoàn có đủ đột phá, sáng tạo và liều lĩnh để thâm nhập vào lĩnh vực kinh doanh mới, năng động như internet.

Nhận làm kê khai thuế

Đặc biệt, một loạt hậu quả sẽ xảy đến nếu các tập đoàn cứ "khép chặt" cánh cửa bên  trong nội bộ gia đình. Chẳng hạn, chẳng thể phát hành cổ phiếu mà không chấp nhận giảm bớt sự kiểm soát gia đình dòng tộc, khả năng huy động vốn để mở rộng kinh doanh sẽ bị giới hạn. Không chịu gánh nặng trách nhiệm với các nhà đầu tư ngoài gia đình có thể đồng nghĩa với việc bỏ qua khoản lợi nhuận tiềm năng. Và dàn vốn mỏng ra nhiều ngành có thể đồng nghĩa với ngày mai của một tập đoàn không có quy mô toàn cầu.

Các doanh nghiệp vận hành hiệu quả đang tìm cách thích ứng các nguyên tố toàn cầu trong điều kiện địa phương. Một tỉ dụ là Astra International, công ty lớn thứ hai của Indonesia theo giá trị thị trường (26 tỷ USD) và có nhẽ là uy tín nhất. Công ty được điều hành bởi Jardine Matheson, một tập đoàn gia đình có cội nguồn từ Hồng Kông. Astra là một tập đoàn tăm tiếng, hoạt động trong lĩnh vực sinh sản ô tô, nhà băng và vỡ hoang mỏ và đang mở mang sang các lĩnh vực như bảo hiểm. Bên cạnh đó, công ty này cũng khoác lên mình vẻ ngoài rất hiện đại, với phương pháp quản lý chuyên nghiệp, với cán cân tính sổ mẫu mực và càng ngày càng chú trọng vào Nghiên cứu & phát triển (R&D) và xây dựng thương hiệu. Ông chủ của Astra - Prijono Sugiarto cho rằng, một nền văn hóa doanh nghiệp mạnh mẽ cũng là một lợi thế cạnh tranh. Prijono Sugiarto nói: "Mọi người nhìn vào mô hình quản trị doanh nghiệp của chúng tôi. Họ biết chúng tôi có tính vẹn tuyền, họ biết chúng tôi tình thật và họ biết rằng chúng tôi chuyên nghiệp".

Nhận làm báo cáo thực tập kế toán


Đối với các công ty đã trưởng thành và đang cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, sức  ép canh tân mô hình tập đoàn để tồn tại cũng như đề nghị nâng cao sức cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Hệ thống doanh nghiệp của Nhật Bản, dù không thể so sánh một cách xác thực với các doanh nghiệp gia đình dòng họ tại châu Á nhưng cũng đã rút ra được nhiều bài học về sự hiểm nguy của tính tự túc. Quá nhiều công ty hoạt động đa ngành trở nên mất tụ tập và được vận hành một cách cẩu thả. Thí dụ như trường hợp của Sony, công ty Nhật Bản này đã chịu thua lỗ trong 4 năm qua và chỉ còn là cái bóng của chính mình trước đây.


Nhật Bản đang dần ứng dụng một mô hình quản lý cởi mở hơn. Các nhà băng, công ty bảo hiểm và các doanh nghiệp từng chiếm tỷ lệ vốn hóa lớn trên trên thị trường chứng khoán, nhưng tỉ lệ này đã giảm từ 60% từ 2 thập kỷ trước đây xuống còn 30%, theo Goldman Sachs. Hiện giờ, chính phủ của Thủ tướng Shinzo Abe cũng đang khuyến khích việc sử dụng giám đốc là người không nằm trong hội đồng quản trị và giục giã các quỹ hưu trí công tiếp cận hoạt động đầu tư.

Thành công sinh ra lỗi thời

Các nền kinh tế tại châu Á đang trở nên no ấm hơn, các định chế cũng được cải thiện và các công ty mang tính toàn cầu hơn. Do vậy, các tập đoàn gia đình có thể trở nên sẽ phải lui vào quá khứ, mặc dù cũng có vài trường hợp ngoại lệ Hutchison Whampoa - đế chế "gia đình trị" thống lĩnh trong ngành chuyển vận, năng lượng, bất động sản, viễn thông và bán sỉ. Tuy vậy, đó không phải thiên hướng chủ đạo.

Samsung - tấm gương châu Á của một tập đoàn đã phần nào phát triển vượt ra ngoài

Phạm vi của một gia đình dòng tộc

Công ty kế toán tại hà nội


Khuynh hướng ngược lại được đại diện bởi Samsung - tập đoàn điện tử Hàn Quốc đã phần nào phát triển vượt ra ngoài phạm vi của một tập đoàn gia đình. Thế hệ chủ tịch thứ hai của tập đoàn - Lee Kun Hee - đã xúc tiến toàn cầu hóa văn hóa tập đoàn trong những năm 1990, áp dụng trả lương cân xứng với sức cần lao và thuê người quản lý đến từ nước ngoài. Trước đây, Samsung vốn chịu tác động mạnh bởi mô hình tập đoàn của Nhật Bản nhưng có sự phát triển hội tụ hơn. Mảng công nghệ Samsung Electronics chiếm khoảng 3/4 giá trị thị trường của tập đoàn, so với tỉ lệ không đến 1/2 trong những năm 1990. Chính bản thân Samsung Electronics cũng phát triển tụ tập cao độ. Trong quý đầu tiên của năm 2014, các sản phẩm điện thoại và máy tính bảng đã đóng góp 76% lợi nhuận của Samsung Electronics.

Một công ty toàn cầu tập hợp với một nền văn hóa toàn cầu gần với mô hình đa nhà nước hơn là mô hình kinh doanh gia đình truyền thống. Con trai của ông Lee là Lee Jae-yong cũng đã sẵn sàng để kế nghiệp cha. Tuy nhiên, gia đình vẫn trực tiếp kiểm soát một phần nhỏ cổ phần và các nhà đầu tư bên ngoài gia đình bây chừ sở hữu khoảng 150 tỷ USD cổ phần.

Samsung đã cho thấy làm cách nào để một mô hình kinh doanh gia đình thành công có thể phát triển thành một tập đoàn đa quốc gia.Samsungcũng đã minh họa cho sự cần thiết, những khó khăn và những phần thưởng của việc mở mang quy mô ra toàn cầu và đó chắc chắn là một tấm gương mà nhiều doanh nghiệp khác của châu Á phải noi theo.

Cách thức cam kết phát triển bền vững cho hệ thống điện Việt Nam

  Tính không bền vững trong HT cung cấp điện   

Quan điểm của Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 là phát triển ngành Điện phải gắn với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm cung cấp đủ điện cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội; sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước; bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Bên cạnh đó, từng bước hình thành phát triển thị trường điện cạnh tranh, đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện; Nhà nước chỉ giữ độc quyền lưới điện truyền tải để đảm bảo an ninh hệ thống năng lượng quốc gia.

Tuy nhiên, thực tế đến nay cho thấy, hệ thống cung cấp điện còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không bền vững:

  Thứ nhất, vị trí độc quyền cung cấp điện gây nhiều bất cập.   

Tập đoàn điện lực Việt Nam (trước là Tổng công ty điện lực Việt Nam) - EVN là một doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được thành lập năm 1995, có chức năng sản xuất, truyền tải và phân phối bán điện. Hiện tại, EVN là đơn vị chiếm phần chi phối lớn nhất trong khâu phát điện. Điều 19 của Luật Điện lực quy định phải có đơn vị điều hành giao dịch thị trường điện lực, chịu trách nhiệm điều hòa, phối hợp hoạt động giao dịch mua bán điện và dịch vụ phụ trợ trên thị trường điện lực. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có đơn vị này, mà đang do EVN điều hành.

Theo kế hoạch, năm 2012, EVN sẽ sản xuất và mua 118,5 tỷ kWh điện, tăng 11,5% so với năm 2011 (trong đó, điện sản xuất đạt 50,88 tỷ kWh, mua 67,62 tỷ kWh), đồng thời sẵn sàng đáp ứng khi nhu cầu sử dụng điện tăng cao.

Năm 2012, EVN đã xác định tập trung thực hiện 3 mục tiêu lớn là: Cung ứng đủ điện phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt của nhân dân; Tập trung đầu tư cho các công trình nguồn và lưới điện trọng điểm phải hoàn thành trong năm 2012, các công trình cấp bách năm 2013 tại các tỉnh phía Nam, cũng như triển khai thực hiện Quy hoạch điện VII có trọng tâm, trọng điểm theo hướng phát triển bền vững; Tái cơ cấu tổ chức bộ máy của Tập đoàn để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động theo hướng chuẩn bị vận hành thị trường điện ở Việt Nam.

  Khẩn trương thi công hoàn thành đường dây 500 kV Sơn La - Hiệp Hòa  

 

EVN tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện, trong đó, sẽ đưa vào vận hành 8 tổ máy, tổng công suất 1.373MW (gồm tổ máy 5, 6 Thủy điện Sơn La (2x400MW); Thủy điện Đồng Nai 4 (2x170MW); Thủy điện Bản Chát (2x110 MW); Thủy điện Kanak (2x6,5MW). Bên cạnh đó, sẽ khởi công 4 dự án nguồn điện, với tổng công suất 2.390 MW, gồm Nhiệt điện Duyên Hải 3; Nhiệt điện Ô Môn 1 (tổ máy 2); Nhiệt điện Thái Bình; Thủy điện Trung Sơn. Ngoài ra, tiếp tục khởi công các dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân; Nhiệt điện Ô Môn 4; Thủy điện Sông Bung… EVN cũng gấp rút hoàn thành 231 công trình lưới điện từ 110 – 500 kV, trong đó có các dự án trọng điểm như đường dây 500 kV Sơn La – Hiệp Hòa; nâng tụ bù đường dây 500 kV Hà Tĩnh – Đà Nẵng; Pleiku – Phú Lâm; đường dây 220 kV đồng bộ với nguồn từ Nhà máy Nhiệt điện Mạo Khê; Thủy điện Bản Chát; Vũng Áng 1; đường dây 220 kV Đăk Nông – Phước Long – Bình Long; đoạn đấu nối vào trạm 220 kV Vân Trì để cấp điện cho Hà Nội. Đồng thời khởi công tiếp 60 công trình lưới điện từ 220 kV - 500 kV…

 

 

Độc quyền là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng không tường minh, dẫn đến những bất cập trong phát triển nguồn cung cấp điện như việc đàm phán ký kết các hợp đồng mua bán điện ngoài EVN thường khó khăn, thiếu minh bạch, thời gian kéo dài. Do chịu khống chế ở mức giá bán cho người tiêu dùng và do những bất cập kém hiệu quả trong quản lý sản xuất, truyền tải và phân phối bán điện nên EVN thường đề xuất giá mua điện từ các nguồn ngoài EVN ở mức thấp, khiến các nhà đầu tư ngoài ngành không bù đắp được chi phí đầu tư và lãi vay...

Bên cạnh đó, tính chất độc quyền của EVN cũng là một trở ngại đáng kể trong việc đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư, từ các nhà đầu tư ngoài ngành, đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài. Tính độc quyền cũng không tạo áp lực rõ ràng về việc phải tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh của DN sản xuất kinh doanh bán điện, dẫn đến những khuất tất trong việc hạch toán và định giá bán sản phẩm…

  Thứ hai, hiệu suất điện ở mức thấp.   

Yếu tố hiệu suất ảnh hưởng rất nhiều đến giá thành sản xuất điện tại các nhà máy nhiệt điện. Cụ thể, hệ số đàn hồi đối với nhà máy nhiệt điện than là – 0,73 và nhà máy nhiệt điện khí tương ứng là – 0,71. Có nghĩa là khi hiệu suất nhà máy giảm 1% giá thành sản xuất điện tại đây tăng tương ứng là 0,73% và 0,71%. Nếu như hiệu suất của nhà máy  Hoàn thiện sổ sách kế toán  nhiệt điện tăng lên đến mức 32% thì giá thành trung bình sẽ giảm từ 5,62 cent/kWh xuống còn 5,14 cent/kWh. Như vậy, nếu với sản lượng điện thương phẩm như hiện nay (khoảng 118 tỷ kWh), sẽ tiết kiệm được khoảng 540 triệu USD mỗi năm. Với số tiền này chúng ta có thể xây dựng được một nhà máy điện cỡ như nhà máy điện Phả Lại 2.

Vậy đâu là rào cản cho việc nâng cao hiệu suất? Nguyên nhân căn bản vẫn là do tính độc quyền gây ra. Là nhà sản xuất độc quyền, EVN không thực sự có quyền lợi trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh khi mà chi phí nhiên liệu được chuyển thẳng sang hộ tiêu thụ, hay nói cách khác chi phí nhiên liệu được chuyển thẳng vào biểu giá điện. Trở ngại thứ hai đối với nâng cao hiệu suất ở các nhà máy điện đốt than lại liên quan tới các chính sách về phát thải. Giá phát thải giảm sẽ không có động lực để giảm phát thải… Hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả các dự án đầu tư ngành điện nói riêng còn thấp. ICOR còn ở mức cao và đang có xu hướng tăng. Năm 2010 là 3,11 trong khi năm 2012 con số này là 3,32.

  Thứ ba, tỷ lệ thủy điện còn quá cao.   

Tỷ lệ thủy điện cao là một trong những nhân tố không bền vững trong hệ thống cung cấp điện. Thông thường tỷ lệ thủy điện là 20 đến 22%. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỷ lệ này có khi lên tới 40%.

Việt Nam là một nước có nguồn tài nguyên nước vào loại trung bình trên thế giới nhưng lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm xấp xỉ hai phần ba tổng lượng nước có được, rất khó chủ động, thậm chí không sử dụng được. Bên cạnh đó, sự phân bố của cả nước mặt lẫn nước dưới đất rất không đều; tài nguyên nước cũng không dễ khai thác và nguồn tài nguyên này đang có xu hướng cạn kiệt, suy thoái do biến đổi khí hậu gây ra.

  Thứ tư, tính không bền vững trong tiêu thụ điện.   

Về cơ cấu tiêu thụ điện, công  kế toán thuế trọn gói  nghiệp và hộ gia đình vẫn chiếm tiêu thụ điện năng nhiều nhất và có xu hướng ngày càng gia tăng. Tiêu dùng điện lãng phí do ý thức tiết kiệm kém và thiết bị không đồng bộ.

Giá bán điện còn tương đối thấp cũng là điều đáng nói. Giá bán điện trung bình của Việt Nam khoảng 6cent/kWh (thấp hơn cả mức của các nước trong khu vực - 10cent/kWh), trong khi giá thành sản xuất điện năm có nhiều nước khoảng 6,4 cent/ kWh. Năm ít nước, sản lượng điện từ các nhà máy thủy điện giảm chỉ còn khoảng 1/3 phần khi đó giá thành sản xuất điện sẽ lên đến mức 7,3 cent/kWh.

Cường độ năng lượng của Việt Nam còn đang ở mức cao. Chỉ số này cao còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Rất khó đánh giá một chiều, tuy nhiên việc sử dụng năng lượng lãng phí chưa hiệu quả cũng là một trong những nguyên nhân.

  Nguyên tắc cơ bản trong phát triển hệ thống điện   

Để phát triển hệ thống điện, cần thay đổi tư duy ngay trong khâu quy hoạch. Cường độ năng lượng có thể còn tăng nhưng cần phải chỉ rõ những gia tăng nào là hợp lý, theo quy luật tất yếu chứ không chấp nhận các nguyên nhân tăng do sử dụng kém hiệu quả...

Nguồn cung ứng phải được đa dạng hóa. Tỷ trọng của thủy điện phải giảm dần và tăng vai trò của nhiệt điện than, năng lượng nguyên tử, năng lượng mới tái tạo để đảm bảo cơ cấu tối ưu các nguồn cung ứng. Bên cạnh đó, các nguyên tắc cơ bản khác trong phát triển hệ thống điện là phải nâng cao hiệu quả sản xuất truyền tải phân phối điện; Thay đổi tư duy trong quản lý điều hành thị trường điện.

  Giải pháp đảm bảo phát triển hệ thống điện bền vững   

    Nâng cao hiệu quả vận hành hệ thống điện     

Việc hình thành và phát triển thị trường điện ở Việt Nam là rất cần thiết. Tính độc quyền của EVN phải giảm dần. Các nhà sản xuất ngoài EVN cần được tạo điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh... Việc hình thành và phát triển thị trường điện phải đạt được các tiêu chí: Các hoạt động điện lực phải minh bạch, tiết kiệm chi phí trong sản xuất, truyền tải, phân phối điện năng để đảm bảo giá điện hợp lý tới người tiêu dùng. Vấn đề thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được tính đến bởi đầu tư điện có nhu cầu vốn quá lớn, thời gian dài.

Hoạt động điện lực tại Việt Nam phải đúng luật và phải nằm trong sự quản lý của nhà nước. Giảm thiểu các nguy cơ các nhà sản xuất bắt tay nhau, tạo ra thế độc quyền trong sản xuất cung cấp điện trong thời điểm khi mà cung còn đang nhỏ hơn cầu. Bên cạnh đó, các bước tái cơ cấu ngành Điện cũng phải song hành và đồng bộ với lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện; đồng thời, cần triển khai chủ trương xã hội hóa đầu tư cho các dự án trong ngành Điện.

    Tư duy hiệu quả ngay trong cách định giá bán điện     

Quan điểm về giá điện trong thị trường điện phải thay đổi. Các yếu tố làm biến động các yếu tố đầu vào cần được tính đến khi xem xét điều chỉnh giá điện. Giá không chỉ đủ bù đắp chi phí. Giá phải đảm bảo sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả. Nhà nước nên cho phép tăng giá bán điện theo lộ trình, tiến tới xóa bỏ tư duy phát triển dựa vào các hỗ trợ từ phía Nhà nước; Giảm dần tiến tới xóa bỏ hoàn toàn trợ giá năng lượng cho mọi đối tác kinh tế xã hội. Tuy nhiên, việc định giá làm sao cũng phải tạo lợi thế cạnh tranh rõ rệt cho các dự án tiết kiệm điện, các thiết bị tiết kiệm điện.

    Xác định cơ cấu nguồn tối ưu đảm bảo các yêu cầu về phát triển bền vững     

Các nhà máy điện khác nhau có ưu điểm nhược điểm khác nhau. Vấn đề là làm sao tìm được cơ cấu nguồn tối ưu, một cơ cấu phát huy được tối đa các lợi điểm đồng thời hạn chế được các nhược điểm của từng loại nguồn.

Để tìm lời giải tối ưu trong bài toán dưới đây, tác giả có một số giả định như sau:

- Trong hệ thống cung cấp điện có 3 loại nguồn chủ yếu là thủy điện, nhiệt điện than và nhiệt điện khí;

- Mức độ chủ động trong việc cung cấp điện được cho điểm từ 1 đến 3. Thủy điện do phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện khách quan bên ngoài và tính không bền vững của nguồn thủy năng nên được xác định ở mức 1 điểm;


Các thông số đầu vào này giá thành sản xuất điện của cả hệ thống là 6,23 cent/kWh…

Tổng hợp các yếu tố chúng tôi đưa ra 4 kịch bản. Các  Dịch vụ kế toán tại hà nội  kịch bản này có cơ cấu sản xuất điện khác nhau, tỷ trọng thủy điện giảm dần từ 40% ở kịch bản 1 xuống còn 20% ở kịch bản 4. Trong các kịch bản này để loại bỏ ảnh hưởng của yếu tố carbon, bài viết sẽ đưa vào chỉ tiêu phát thải chứ không phải chỉ tiêu làm lợi từ bán carbon.

Khi yêu cầu cao về khả năng chủ động trong huy động nhà máy ta có kết quả lựa chọn phương án như sau:

Kết quả cho thấy tỷ trọng thủy điện 20%, chiếm ưu thế.

Khi yêu cầu cao đối với chỉ tiêu giá thành sản xuất ta có kết quả lựa chọn phương án như sau:

  Quyết định  

 

  Điều 1.  Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến 2020 theo các nội dung chính sau đây:

  1. Quan điểm phát triển:  

- Phát triển điện phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Đẩy mạnh điện khí hoá nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo.

- Bảo đảm chất lượng điện năng để cung cấp dịch vụ điện với chất lượng ngày càng cao, giá cạnh tranh. Đặc biệt coi trọng tiết kiệm điện năng từ khâu phát, truyền tải đến khâu sử dụng.

- Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn năng lượng sơ cấp của đất nước như nguồn thuỷ năng (kết hợp với thuỷ lợi), khí, dầu, than cho sản xuất điện, áp dụng thiết bị sử dụng khoa học, công nghệ tiên tiến và giảm ô nhiễm môi trường.

- Tiếp tục khảo sát, nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện để xây dựng nhà máy điện nguyên tử (sau năm 2015) đảm bảo an toàn tuyệt đối trong sử dụng, nhằm đa dạng hoá các nguồn năng lượng.

- Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa.

- Từng bước hình thành thị trường điện lực cạnh tranh trong nước, đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh điện, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia, không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Nhà nước chỉ giữ độc quyền khâu truyền tải, xây dựng và vận hành các nhà máy thuỷ điện lớn, các nhà máy điện nguyên tử. Chủ động trong việc tham gia, liên kết lưới điện và mua bán điện với các nước trong khu vực.

- Xây dựng giá điện phải đạt mục tiêu khuyến khích đầu tư cho phát triển ngành điện, tăng sức cạnh tranh về giá điện so với các nước trong khu vực, nhất là giá điện phục vụ sản xuất, tách phần chính sách xã hội ra khỏi giá điện. Có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông thôn, miền núi.

- Kết hợp giữa điều hành mạng lưới điện thống nhất trong cả nước với xây dựng và điều hành hệ thống điện an toàn theo từng khu vực nhằm đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới truyền tải,